NHÌN LẠI 10 NĂM CÔNG TÁC AN TOÀN LAO ĐỘNG, VỆ SINH LAO ĐỘNG TỪ QUÁ TRÌNH TỔNG KẾTCHỈ THỊ SỐ 29-CT/TWVÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG TÌNH HÌNH MỚI

Từ khi Ban Bí thư ban hành Chỉ thị số 20-CT/TW ngày 18 tháng 9 năm 2023 về đẩy mạnh công tác an toàn lao động, vệ sinh lao động trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, đến nay công tác an toàn, vệ sinh lao động đã có bước tiến mạnh, đạt nhiều kết quả quan trọng, toàn diện, rõ rệt, lan tỏa mạnh mẽ trong toàn xã hội, được cán bộ, đảng viên, nhân dân, người lao động và người sử dụng lao động đồng tình ủng hộ.

  1. Những kết quả đạt được

1.1. Công tác quán triệt, triển khai thực hiện Chỉ thị: Các cấp ủy, tổ chức đảng từ Trung ương đến địa phương đã xây dựng kế hoạch và triển khai phổ biến, quán triệt Chỉ thị số 29-CT/TW tới các chi bộ, cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên và các tầng lớp Nhân dân. Công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện Chỉ thị số 29-CT/TW, giám sát tình hình thực hiện chính sách, pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động (ATVSLĐ) bằng nhiều hình thức và được lồng ghép trong các cuộc kiểm tra, giám sát các lĩnh vực chuyên môn của cơ quan, đơn vị[1]. Công tác sơ kết, tổng kết được tổ chức thực hiện nghiêm túc, đúng tiến độ[2].

1.2. Hệ thống pháp luật liên quan đến ATVSLĐ đã được ban hành tương đối đầy đủ, đồng bộ, nội dung các quy định của pháp luật phù hợp với các cam kết quốc tế của Việt Nam, tiệm cận với thông lệ quốc tế về ATVSLĐ và phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội của Việt Nam:Quốc hội đã thông qua 02 Bộ Luật, 7 Luật[3] liên quan đến ATVSLĐ; Chính phủ đã ban hành 17 Nghị định (trong đó có 8 Nghị định liên quan trong các lĩnh vực đặc thù[4]), các Bộ ban hành 135 Thông tư (trong đó có 30 Thông tư liên quan trong lĩnh vực đặc thù); các địa phương đã ban hành Nghị quyết của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân và các quyết định của Ủy ban nhân dân để tổ chức triển khai thực hiện. Các quy định về ATVSLĐ đã từng bước được hoàn thiện theo hướng lấy phòng ngừa làm nguyên tắc cơ bản, mở rộng ra cả khu vực không có quan hệ lao động.

1.3. Công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, ý thức chủ động bảo đảm ATVSLĐ cho cán bộ, đảng viên và nhân dân được các cấp, các ngành tập trung triển khai thực hiện: có sự đổi mới tích cực về các nội dung và hình thức tuyên truyền, chú trọng tới công tác tuyên truyền trực quan, sinh động, cụ thể, sát thực tế; giới thiệu, nhân rộng các mô hình tốt, những cá nhân tiêu biểu, có sáng kiến trong lĩnh vực ATVSLĐ; đẩy mạnh và mở rộng tới khu vực không có quan hệ lao động, nhất là trong nông nghiệp đã được các cấp Hội Nông dân tích cực triển khai thực hiện.

1.4. Công tác đào tạo, nâng cao hiểu biết, kỹ năng phòng tránh tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp và bảo đảm vệ sinh lao động cho người lao động đã được quan tâm, chú trọng: Chương trình đào tạo, huấn luyện kỹ năng, phòng ngừa đã được chuẩn hóa, làm cơ sở cho các tổ chức dịch vụ huấn luyện xây dựng nội dung đào tạo, huấn luyện phù hợp với thực tế, với quá trình đổi mới công nghệ sản xuất trong từng lĩnh vực, nghề, công việc mà người lao động đảm nhận. Một số trường đại học đã mở mã ngành đào tạo kỹ sư bảo hộ lao động, cử nhân bảo hộ lao động, thạc sĩ, tiến sĩ ATVSLĐ.

1.5. Nghiên cứu, ứng dụng khoa học – công nghệ trong sản xuất, sử dụng trang thiết bị bảo đảm ATVSLĐ, cải thiện môi trường, điều kiện làm việc cho người lao động, đặc biệt là trong những ngành nghề, lĩnh vực có nguy cơ cao về TNLĐ, BNN đang dần được quan tâm đầu tư: có hơn 270.000 đề tài nghiên cứu,sáng kiến ứng dụng, chuyển giao khoa học công nghệ về ATVSLĐ góp phần góp phần bảo vệ sức khỏe, an toàn cho người lao động, bảo vệ nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế – xã hội. Nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung, ban hành các tiêu chuẩn, quy chuẩn ATVSLĐ đã được đẩy mạnhphù hợp với yêu cầu tình hình mới; các doanh nghiệp đã đầu tư những công nghệ sản xuất mới, giảm thiểu nguy cơ mất an toàn trong sản xuất, giảm ô nhiễm môi trường, giảm phát thải nhà kính, đẩy mạnh ứng dụng cơ giới hóa, tự động hóa, tin học hóa nhất là những ngành nghề có nguy cơ cao TNLĐ, BNN. Phong trào thi đua lao động sáng tạo, phát huy sáng kiến, cải thiện điều kiện làm việc cho người lao động được triển khai rộng rãi khắp cả nước và thu hút được sự hưởng ứng của người lao động như đổi mới thiết bị công nghệ và xử lý ô nhiễm môi trường, thông gió, chống nóng, chống nắng, cải tạo môi trường làm việc, trang bị phương tiện bảo vệ cá nhân… đã được đưa vào ứng dụng và hoạt động sản xuất kinh doanh, đem lại hiệu quả kinh tế cho đơn vị. Đã có hàng trăm sáng kiến, giải pháp kỹ thuật của nông dân, tự sáng chế, tự nghiên cứu được ứng dụng có hiệu quả vào sản xuất như: Máy làm đất, máy gieo hạt, máy tưới cây, máy bón phân, máy phun thuốc trừ sâu… góp phần hạn chế TNLĐ, BNN nâng cao sức khỏe cho người nông dân[5].

1.6. Công tác quản lý nhà nước về ATVSLĐ từng bước được tăng cường và củng cố, ngày càng đi vào nền nếp, có chiều sâu, trên cơ sở sự phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa các bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp: Tổ chức bộ máy, nhân sự quản lý ATVSLĐ cơ bản được hoàn thiện từ trung ương xuống địa phương, có sự phân công, phân cấp, ủy quyền tương đối hợp lý, phối hợp chặt chẽ và hiệu quả. Công tác thanh tra, kiểm tra được thực hiện thường xuyên, chế tài xử phạt nghiêm các vi phạm pháp luật về ATVSLĐ đã được xây dựng và triển khai thực hiện.Công tác thi đua khen thưởng ATVSLĐ được triển khai thực hiện và đi vào nền nếp. Nhiều doanh nghiệp xây dựng và áp dụng quy chế khen thưởng đột xuất về kiểm tra chấp hành công tác ATLĐ, kỷ luật lao động tại hiện trường sản xuất[6]; xây dựng quy định trả lương, thưởng và các biện pháp kinh tế để gắn trách nhiệm của người lao động với công tác ATVSLĐ[7];  thưởng an toàn[8].

1.7. Cơ chế, chính sách, đa dạng hóa nguồn lực xã hội trong thực hiện công tác ATVSLĐ được đổi mới theo hướng ưu tiên cho các hoạt động phòng ngừa, quản lý rủi ro, làm rõ trách nhiệm của người sử dụng lao động:  Các doanh nghiệp đã chú trọng đầu tư nguồn lực trong việc kiểm soát yếu tố nguy hiểm, yếu tố có hại, thực hiện đánh giá rủi ro, quan trắc môi trường lao động theo quy định. Chế độ trang bị phương tiện bảo vệ cá nhân, bồi dưỡng bằng hiện vật đã được nhiều doanh nghiệp thực hiện nghiêm túc. Việc mở rộng các hình thức nâng cao mức bảo hiểm, bồi thường TNLĐ, BNN được thực hiện linh hoạt; chính sách bảo hiểm TNLĐ tự nguyện cho đối tượng là lao động trong khu vực không có quan hệ lao động đã được quan tâm.

1.8. Chủ động hợp tác, hội nhập quốc tế về ATVSLĐ:Các cơ quan trung ương, địa phương đã chủ động, tăng cường hợp tác, trao đổi chuyên gia, kỹ thuật ATVSLĐ với nhiều nước, các tổ chức quốc tế[9]thông qua các thỏa thuận hợp tác với nhiều cơ quan[10] nhằm học tập kinh nghiệm, kỹ năng, cũng như hỗ trợ về nguồn lực, chuyên gia, phương thức quản lý an toàn lao động tiên tiến, hiện đại cũng như phòng chống bệnh nghề nghiệp, góp phần phòng ngừa tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, cải thiện điều kiện lao động cho người lao động.

1.9. Tình hình tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp ngày càng được cải thiện:Tần suất tai nạn lao động chết người đã giảm ổn định bình quân 4%/năm. Các vụ tai nạn lao động nghiêm trọng chết nhiều người đã giảm mạnh. Công tác chăm sóc sức khỏe người lao động và quản lý môi trường lao động được quan tâm. Số người lao động được khám sức khỏe định kỳ hằng năm tăng gấp 2 lần. Trung bình mỗi năm có khoảng 7.000 người lao động được chẩn đoán mắc bệnh nghề nghiệp và có 500 trường hợp được giám định bệnh nghề nghiệp, giảm trên 50% so với giai đoạn trước. Số lượng mẫu được quan trắc trung bình trong năm có xu hướng tăng và tăng gấp 2 lần. Tỷ lệ mẫu không đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn cho phép giảm từ 8,35% xuống 4,5%.

Toàn cảnh hội nghị tổng kết thực hiện chỉ thị 29-CT/TW

  1. Hạn chế, tồn tại và nguyên nhân

2.1. Hạn chế, tồn tại: một số cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền địa phương vàdoanh nghiệp chưa coi công tác an toàn, vệ sinh lao động là nhiệm vụ trọng tâm trong kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội;nguồn lực đầu tư cho công tác an toàn, vệ sinh lao động chưa đáp ứng được với yêu cầu thực tế;ý thức chấp hành pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động của nhiều người lao động và người sử dụng lao động còn chủ quan, lơ là; nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ về an toàn, vệ sinh lao động còn chưa theo kịp quá trình phát triển sản xuất;việc khám sức khỏe định kỳ, khám phát hiện bệnh nghề nghiệp và điều trị, phục hồi chức năng lao động cho người bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp chưa đầy đủ;tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp vẫn còn diễn biến phức tạp; môi trường lao động, vệ sinh lao động, điều kiện lao động chưa được cải thiện, hoạt động huấn luyện an toàn, vệ sinh lao động vẫn còn hình thức, chưa sát thực với điều kiện thực tế lao động; công tác tự kiểm tra về an toàn, vệ sinh lao động của doanh nghiệp, đơn vị chưa hiệu quả; công tác quản lý nhà nước ở một số địa phương còn hạn chế, nhất là công tác thanh tra, kiểm tra an toàn, vệ sinh lao động có nơi, có lúc còn thiếu sâu sát, chưa kịp thời; công tác giám sát, kiểm tra của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên chưa thường xuyên, hiệu quả.

2.2. Nguyên nhân: Những hạn chế, tồn tại nêu trên xuất phát từ cả nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó nguyên nhân chủ quan là chủ yếu, cụ thể như: Công tác lãnh đạo, chỉ đạo của một số cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền, người đứng đầu chưa đáp ứng yêu cầu; việc lãnh đạo, chỉ đạo ở một số nơi chưa quyết liệt, đồng bộ; nguồn lực bố trí chưa tương xứng với yêu cầu thực tế; công tác tham mưu, hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra chưa thường xuyên, kịp thời; việc xử lý các vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong lĩnh vực an toàn, vệ sinh lao động chưa thật sự nghiêm minh; công tác giám sát, kiểm tra của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên chưa thường xuyên, hiệu quả.

Trước yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, toàn cầu hóa, phát triển khoa học công nghệ, xu hướng phát triển kinh tế số, kinh tế tuần hoàn và tăng trưởng xanh, biến đổi khí hậu, dịch bệnh nhất là cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, thay đổi công nghệ sản xuất, xu hướng phát triển mạnh của các ngành công nghiệp điện tử, bán dẫn, lắp ráp, năng lượng tái tạo.v.v. công tác an toàn, vệ sinh lao động đòi hỏi nắm bắt được cơ hội thay đổi công nghệ quản lý, sản xuất, tiếp cận với các chuẩn quốc tế,  nhưng cũng phải chủ động hoàn thiện cơ chế, chính sách, cập nhật với các tiêu chuẩn quốc tế, đào tạo, nâng cao chất lượng người lao động có kỹ năng lao động, tác phong làm việc công nghiệp, ý thức kỷ luật lao động theo xu hướng công nghiệp hiện đại đồng thời chú trọng chăm sóc sức khỏe cho người lao động để thích ứng với những thay đổi trong tình hình mới.

  1. Quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ giải pháp công tác an toàn, vệ sinh lao động trong tình hình mới

3.1. Bối cảnh và những yêu cầu đặt ra đối với công tác an toàn, vệ sinh lao động trong tình hình mới

3.1.1. Bối cảnh quốc tế:

– Quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng đang diễn ra ở quy mô toàn cầu, đặt ra những tiêu chuẩn lao động mới, trong đó có các tiêu chuẩn về ATVSLĐ cho người lao động, tạo cơ hội thuận lợi để tiếp cận với các chuẩn quốc tế. Tuy nhiên, xu thế hội nhập quốc tế sẽ khiến cho các doanh nghiệp phải đối mặt với cạnh tranh về giá, điều đó sẽ xuất hiện áp lực tăng cường năng suất lao động và giảm chi phí sản xuất, dẫn đến giảm đầu tư vào các biện pháp phòng ngừa tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, gây nguy cơ tăng tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp và môi trường, điều kiện lao động không đảm bảo. Bên cạnh đó, Việt Nam tham gia các hiệp định thương mại, đặt ra những tiêu chuẩn lao động mới, trong đó có các tiêu chuẩn về an toàn, vệ sinh lao động cho người lao động, tuy nhiên, người lao động của Việt Nam đa số là chuyển từ nông nghiệp sang khu vực nông nghiệp với trình độ tay nghề thấp, chưa có tác phong công nghiệp cũng sẽ làm gia tăng tình trạng tai nạn lao động.Từ thực tế đó đòi hỏi phải đảm bảo các biện pháp ATVSLĐ được duy trì và cải thiện, đồng thời tăng cường giáo dục và nhận thức về ATVSLĐ trong cộng đồng kinh doanh quốc tế.

– Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là quá trình chuyển đổi sang kinh tế số đang phát triển mạnh mẽ, tạo đột phá trên nhiều lĩnh vực, làm gia tăng linh hoạt của thị trường lao động, hình thành và phát triển các mô hình sản xuất, kinh doanh mới trong kinh tế chia sẻ, kinh tế tuần hoàn, kinh tế tự do trên nền tảng trực tuyến, dẫn đến xuất hiện các loại hình việc làm phi truyền thống, việc làm linh hoạt, tự do, mang tính chất tạm thời dẫn đến việc người lao động thường làm việc với thời gian kéo dài vượt ngưỡng quy định của pháp luật lao động, không được trang bị phương tiện bảo vệ cá nhân, môi trường và điều kiện làm việc tiềm ẩn nhiều nguy cơ rủi ro, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng và sức khỏe của người lao động.

– Biến đổi khí hậu và tình trạng môi trường bị suy thoái, hiện tượng thời tiết cực đoan, nhiệt độ và độ ẩm tăng dẫn đến sức khỏe người lao động dễ bị mệt mỏi, sốc nhiệt nhất là đối với người lao động làm việc ở ngoài trời, làm việc trong không gian hạn chế; môi trường ẩm ướt, dễ bị trơn trượt khi làm việc trên cao dẫn đến tai nạn lao động, sự cố nghiêm trọng. Biến đổi khí hậu có thể gây ra thay đổi trong chuỗi cung ứng, ảnh hưởng đến việc cung cấp vật liệu và nguyên liệu, người lao động đối diện với nguy cơ tiếp xúc với các hóa chất độc hại, vi khuẩn, virút, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe người lao động và phát sinh bệnh nghề nghiệp đòi hỏi phải có các giải pháp về quản lý ATVSLĐ để đảm bảo an toàn và bảo vệ sức khỏe cho người lao động.

3.1.2. Bối cảnh trong nước:

– Hiếp pháp năm 2013 qui định: “Người làm công ăn lương được bảo đảm các điều kiện làm việc công bằng, an toàn; được hưởng lương, chế độ nghỉ ngơi”. Như vậy, quyền làm việc gắn với quyền được bảo đảm các điều kiện làm việc an toàn, bảo đảm sự công bằng giữa những người lao động. Dưới góc độ quyền, quy định người làm công ăn lương được hưởng lương cho thấy việc đảm bảo người lao động  được hưởng lương là nghĩa vụ của người sử dụng lao động. Nhà nước cần thực hiện chính sách bảo đảm cho các chủ thể sử dụng lao động thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình để đảm bảo môi trường làm việc an toàn cho người lao động.

– Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đặt ra mục tiêu  Việt Nam trở thành quốc gia đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và trở thành nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045, trong đó nhấn mạnh quan tâm đến mọi người dân, bảo đảm chính sách lao động, thực hiện tốt phúc lợi xã hội, lấy bảo vệ môi trường sống và sức khỏe nhân dân làm mục tiêu hàng đầu. Đây cũng là thời kỳ mà nền kinh tế của Việt Nam đang được định hình bởi các xu thế chủ đạo như hội nhập quốc tế, cách mạng công nghiệp lần thứ tư, hình thành nhiều ngành nghề lao động mới (điện tử, lắp ráp, chất bán dẫn..) ảnh hưởng đến sức khỏe người lao động, bệnh nghề nghiệp.

– Trong khi đó, các vấn đề hiện hữu như suy giảm kinh tế toàn cầu, suy thoái môi trường, biến đổi khí hậu và tự động hóa, đô thị hóa ngày càng gia tăng.v.v. Sự dịch chuyển một lực lượng lớn lao động từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp với trình độ tay nghề thấp, chưa có tác phong công nghiệp cũng sẽ làm gia tăng tình trạng tai nạn lao động và ô nhiễm môi trường, nảy sinh nhiều yếu tố có hại (như hóa chất, dung môi, vi khuẩn, vi rút…) làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe người lao động, phát sinh bệnh nghề nghiệpvà môi trường, điều kiện lao động không đảm bảo.

– Theo thống kê của Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, cả nước hiện có khoảng hơn 5.400 làng nghề thu hút số lượng lớn lao động, tuy nhiên, điều kiện lao động ở các làng nghề đều chưa đạt tiêu chuẩn như độ ồn, ánh sáng, độ rung, độ ẩm, nhiệt độ cao…, người lao động phải đối mặt với các yếu tố nguy hiểm, độc hại như bụi, tiếng ồn, nhiệt, hóa chất, tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn vệ sinh lao động, ô nhiễm môi trường… đòi hỏi công tác ATVSLĐ trong các làng nghề cũng cần được đặc biệt quan tâm hơn.

– Việt Nam đang trong thời kỳ cơ cấu dân số vàng nhưng tốc độ già hóa dân số cũng rất nhanh. Theo dự báo, thời gian quá độ già hóa dân số sang dân số già của Việt Nam khoảng 26 năm (từ năm 2011 đến 2036), đây là khoảng thời gian ngắn, ngắn hơn rất nhiều so với các quốc gia có trình độ phát triển cao. Như vậy, chỉ còn khoảng 14 năm nữa Việt Nam sẽ chính thức bước vào thời kỳ dân số già (khi tỷ lệ dân số từ 60 tuổi trở lên đạt 20% hay tỷ lệ dân số từ 65 tuổi trở lên đạt 14%). Đặt ra yêu cầu Việt Nam phải bảo đảm được an toàn lao động và sức khỏe cho người lao động cao tuổi, bên cạnh đó cũng phải chú ý đến lực lượng lao động trẻ tuổi chiếm số lượng lớn ở Việt Nam.

Các xu hướng này mang đến cơ hội và thách thức cho việc thực hiện đảm bảo an ninh con người, bảo đảm sự an toàn của con người trước những biến cố bất ngờ, bất lợi trong cuộc sống, trong lao động và đảm bảo sức khỏe người dân trong thời gian tới, đòi hòi cần phảicó chủ trương, đường lối, định hướng của Đảng đối với công tác ATVSLĐ để kịp thời thích ứng trong tình hình mới.

3.2. Quan điểm chỉ đạo

Thực hiện công tác ATVSLĐ phải đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng, sự quản lý chặt chẽ, hiệu quả của Nhà nước, sự giám sát thường xuyên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội, sự tham gia tích cực của người dân, doanh nghiệp để tạo môi trường làm việc an toàn, hiệu quả, nâng cao sức khỏe cho người lao động, đẩy mạnh sản xuất phát triển, thực hiện hiệu quả khát vọng xây dựng phát triển đất nước giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc.

Việc chăm lo cải thiện điều kiện lao động, đảm bảo môi trường làm việc ATVSLĐ là một trong những nhiệm vụ trọng yếu để phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động. Lấy con người làm trung tâm, là chủ thể, mục tiêu trong xây dựng kế hoạch, chương trình thực hiện công tác ATVSLĐ.

 Tập trung phát triển kinh tế nhưng đồng thời phải bảo đảm cho mọi người được làm việc trong những điều kiện ATVSLĐ, được chăm lo bảo vệ sức khỏe, tính mạng, đời sống vật chất, tinh thần. Đầu tư cho ATVSLĐ là đầu tư cho phát triển bền vững, cần được chú trọng trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội.

 Đảm bảo ATVSLĐ ngày càng liên quan chặt chẽ đến sự phát triển của mỗi doanh nghiệp, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế bền vững của mỗi quốc gia. Vì vậy, xây dựng một nền sản xuất an toàn với những sản phẩm chế biến sâu, có chất lượng cao và tính cạnh tranh gắn với việc bảo vệ sức khỏe người lao động là một trong những yêu cầu tất yếu của sự phát triển kinh tế bền vững hội nhập sâu rộng với nền kinh tế toàn cầu.

Kết hợp chặt chẽ giữa chủ động, tích cực phòng ngừa với phát triển, xử lý nghiêm minh, kịp thời những hành vi vi phạm quy định về ATVSLĐ.

3.3. Mục tiêu

Mục tiêu phấn đấu giảm tần suất tai nạn lao động chết người trung bình hằng năm là 4%; tăng số người được khám phát hiện bệnh nghề nghiệp trung bình hằng năm thêm 5%; chăm lo cải thiện điều kiện làm việc, giảm ô nhiễm môi trường lao động; chăm sóc sức khỏe người lao động tốt hơn; nâng cao nhận thức và sự tuân thủ pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động; xây dựng văn hóa an toàn lao động trong doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh; bảo đảm an toàn tính mạng cho người lao động và Nhân dân, tài sản của Nhà nước, tài sản của doanh nghiệp, hạnh phúc của các gia đình, góp phần vào sự phát triển bền vững của quốc gia.

3.4. Nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu

Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo xuyên suốt, thống nhất về công tác ATVSLĐ; xác định công tác ATVSLĐ là chủ trương lớn, nhất quán của Đảng, Nhà nước, là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội; đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, hệ thống chính trị về vai trò, vị trí, tầm quan trọng của công tác ATVSLĐ trong việc chăm lo sức khỏe, cải thiện điều kiện và môi trường làm việc cho người lao động.

Tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật đảm bảo đồng bộ, hiện đại, phù hợp với phát triển kinh tế – xã hội và đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới. Tăng cường, chủ động thực hiện các biện pháp phòng ngừa tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, cải thiện điều kiện làm việc, nâng cao sức khỏe cho người lao động. Kiện toàn, nâng cao chất lượng đội ngũ làm công tác ATVSLĐ, thanh tra lao động, thanh tra ATVSLĐ các cấp.Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, tự kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về ATVSLĐ. Đẩy mạnh việc nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ về ATVSLĐ, chăm sóc sức khỏe người lao động và kịp thời ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong quản lý về ATVSLĐ.

Tăng cường nguồn lực, đầu tư cho công tác ATVSLĐ (bao gồm cả khu vực không có quan hệ lao động) gắn với đổi mới cơ chế tài chính, nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực, đưa nội dung ATVSLĐ vào các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội. Thúc đẩy việc huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong nước và quốc tế cho công tác ATVSLĐ. Sử dụng linh hoạt, hiệu quả nguồn Quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. Tăng cường công tác xã hội hóa để huy động được các nguồn lực của xã hội, doanh nghiệp.

Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực làm công tác ATVSLĐ. Chú trọng công tác đào tạo, huấn luyện, chuyển giao, cập nhật kiến thức, kỹ năng ATVSLĐ, phòng chống tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp cho người làm công tác ATVSLĐ, bao gồm cả khu vực không có quan hệ lao động đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới.

Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế về ATVSLĐ; tăng cường trao đổi thông tin, kinh nghiệm, hợp tác đào tạo, chuyên gia với các nước. Tiếp thu, tranh thủ kinh nghiệm, nguồn lực quốc tế về ATVSLĐ, cập nhật kịp thời các tiêu chuẩn khu vực và quốc tế, công nghệ sản xuất, quản lý mới ATVSLĐ.

[1] Báo cáo số 2008/BC-UBVĐXH14 ngày 16/5/2019 của Ủy ban về các Vấn đề Xã hội của Quốc hội kết quả giám sát chuyên đề “Tình hình thực hiện chính sách, pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động giai đoạn 2016-2018”.

[2]Năm 2019 Ban Kinh tế Trung ương đã tiến hành sơ kết 5 năm thực hiện Chỉ thị số 29-CT/TW.

[3] Bộ Luật hàng hải Việt Nam, Bộ Luật Lao động, Luật An toàn, vệ sinh lao động, Luật chất lượng sản phẩm, hàng hóa, Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật, Luật Hóa chất, Luật Năng lượng nguyên tử, Luật Điện lực, Luật Xây dựng, Luật Dầu khí

[4]Nông nghiệp, hóa chất, vật liệu nổ công nghiệp, khí, điện, xây dựng.

[5]Báo cáo sô 153-BC/ĐĐ-HNDVN ngày 25/7/2023 của Đảng đoàn Hội Nông dân Việt Nam.

[6]Tổng Công ty điện lực miền Trung.

[7] Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam: tiền lương hăng ngày gồm tiền lương theo sản phẩm, công việc và tiền lương thực hiện công tác an toàn, người làm tốt công tác ATVLSĐ còn được hưởng tiền thưởng tháng, năm. Cá nhân có phát hiện ra nguy cơ mất ATVSLĐ cũng được khuyến khích tiền thưởng.

[8]Tập đoàn Điện lực Việt Nam.

[9] Tổ chức Lao động quốc tế (ILO),WHO, APHEDA, KOICA, Tổ chức Hàng hải quốc tế (IMO), Tổ chức Hàng không Dân dụng Quốc tế (ICAO), Tổ chức ATVSLĐ khu vực Châu Á Thái Bình Dương (APOSHO), Hiệp hội An toàn và Sức khỏe công nghiệp Nhật Bản (JISHA), Viện nghiên cứu lao động và sức khỏe Thụy Sĩ (IST)

[10]Cơ quan ATVSLĐ Hàn Quốc, Ban Phòng ngừa công nghiệp mỏ quốc tế thuộc Hiệp hội an sinh xã hội quốc tế (ISSA/MINING); Cơ quan An toàn Thang máy Hàn Quốc, Hiệp hội Gas Châu Á và các Tập đoàn sản xuất Phương tiện bảo hộ cá nhân.

Chu Thị Hạnh                         

 Phó Cục trưởng Cục An toàn lao động 

X