Phòng ngừa tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp từ Quỹ Bảo hiểm tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp

Chính sách Bảo hiểm xã hội (BHXH) là một trong những trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội ở nước ta. Trong đó, Bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp (TNLĐ – BNN) là một thành phần, do người sử dụng lao động bắt buộc phải đóng cho người lao động (NLĐ), nhằm bảo đảm hơn đời sống của những lao động khi gặp các rủi ro TNLĐ và BNN.

Thực trạng thực hiện chế độ TNLĐ, BNN theo quy định tại Luật An toàn vệ sinh lao động
Trước đây, các nội dung của bảo hiểm TNLĐ, BNN nằm trong Luật BHXH, tuy nhiên, do chỉ thực hiện những chế độ trợ cấp TNLĐ, BNN sau khi người lao động đã điều trị ổn định thương tật, còn việc chi trả cho các chế độ trợ cấp phương tiện trợ giúp sinh hoạt; dụng cụ chỉnh hình, trợ cấp phục vụ, dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau khi điều trị thương tật, bệnh tật hầu như rất ít; chưa thực hiện chế độ khen thưởng…; chưa có cơ chế tái đầu tư để phòng ngừa TNLĐ, BNN nên chưa hỗ trợ hiệu quả trong việc chia sẻ rủi ro với doanh nghiệp khi xảy ra TNLĐ. Chính vì vậy, để tăng cường khả năng phòng ngừa TNLĐ, BNN được hỗ trợ từ Quỹ bảo hiểm TNLĐ, BNN, đồng thời để đảm bảo tính đồng bộ, tránh có sự tản mạn quy định về an toàn vệ sinh lao động (ATVSLĐ) tại nhiều văn bản pháp luật khác nhau, Luật ATVSLĐ có quy định về chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN từ Luật Bảo hiểm xã hội sang Luật ATVSLĐ, nhưng việc thu, chi và quản lý quỹ vẫn do cơ quan bảo hiểm xã hội thực hiện.
Luật ATVSLĐ quy định người sử dụng lao động hằng tháng đóng tối đa 1% trên quỹ tiền lương làm căn cứ đóng BHXH của người lao động vào Quỹ Bảo hiểm TNLĐ, BNN. Ngoài các nội dung chính được quy định từ trong Luật BHXH nhằm chi trả, bồi thường, trợ cấp cho người bị TNLĐ, BNN, Luật ATVSLĐ bổ sung thêm các nội dung: Điều 55. Hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp cho người bị TNLĐ, BNN khi trở lại làm việc và Điều 56. Hỗ trợ các hoạt động phòng ngừa, chia sẻ rủi ro về TNLĐ, BNN. Cụ thể: Điều 55 quy định trường hợp người bị TNLĐ, BNN được người sử dụng lao động sắp xếp công việc mới thuộc quyền quản lý, nếu phải đào tạo NLĐ để chuyển đổi nghề nghiệp thì được hỗ trợ học phí. Mức hỗ trợ không quá 50% mức học phí và không quá 15 lần mức lương cơ sở; Số lần hỗ trợ tối đa đối với mỗi NLĐ là hai lần và trong 01 năm chỉ được nhận hỗ trợ một lần; Điều 56 quy định: Hằng năm, Quỹ bảo hiểm TNLĐ, BNN dành tối đa 10% nguồn thu để hỗ trợ các hoạt động phòng ngừa, chia sẻ rủi ro về TNLĐ, BNN. Các hoạt động phòng ngừa, chia sẻ rủi ro về TNLĐ, BNN được hỗ trợ bao gồm: Khám bệnh, chữa bệnh nghề nghiệp; Phục hồi chức năng lao động; Điều tra lại các vụ TNLĐ, BNN theo yêu cầu của cơ quan bảo hiểm xã hội; Huấn luyện về ATVSLĐ cho người tham gia bảo hiểm TNLĐ, BNN. Đặc biệt, phạm vi điều chỉnh của Luật ATVSLĐ đã mở rộng đối tượng đóng, hưởng chế độ TNLĐ, BNN phù hợp với đối tượng đóng bảo hiểm xã hội cho cả đối tượng NLĐ không có hợp đồng lao động, người lao động dưới 15 tuổi, kể cả lao động đã nghỉ hưu… Đây là một ưu điểm vượt trội của các chế độ, chính sách của Nhà nước.
Để triển khai chính sách bảo hiểm TNLĐ, BNN, Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định số 37/2016/NĐ-CP quy định và hướng dẫn một số điều của Luật ATVSLĐ về Bảo hiểm TNLĐ, BNN bắt buộc; Nghị định 44/2017/NĐ-CP về điều chỉnh giảm mức đóng. Bộ LĐTBXH cũng đã ban hành Thông tư số 26/2017/TT-BLĐTBXH quy định và hướng dẫn thực hiện chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN bắt buộc.
Nghị định 44/2017/NĐ-CP về điều chỉnh mức đóng Bảo hiểm TNLĐ, BNN. Năm 2017, căn cứ vào thực tế tồn dư Quỹ TNLĐ, BNN (tính đến năm 2014 quỹ TNLĐ, BNN dư khoảng 16.300 tỷ đồng, đến năm 2016, quỹ kết dư khoảng 26.000 tỷ đồng), để hỗ trợ doanh nghiệp giảm chi phí sản xuất và tiết kiệm ngân sách nhà nước, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã đề xuất Chính phủ giảm mức đóng từ 1% trên quỹ tiền lương xuống còn 0,5% trên quỹ tiền lương. Với chính sách này, mỗi năm tiết kiệm cho ngân sách Nhà nước gần 1.000 tỷ đồng và cho doanh nghiệp gần 3.000 tỷ đồng.
Sau 3 năm triển khai thực hiện, nhìn chung cấp ủy, chính quyền địa phương đều quan tâm chỉ đạo trong việc tổ chức thực hiện chính sách và sự phối hợp giữa các ban, ngành, các Hội đoàn thể chính trị – xã hội trong công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về Bảo hiểm xã hội nói chung, bảo hiểm TNLĐ, BNN nói riêng để mở rộng, phát triển đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm TNLĐ, BNN. Thực hiện quy định của Luật ATVSLĐ và Nghị định 37/2016/NĐ-CP, hầu hết các trường hợp TNLĐ, BNN đã xác định tỷ lệ suy giảm sức khỏe đều được hưởng chế độ trợ cấp TNLĐ, BNN theo quy định của pháp luật, cụ thể: Trong giai đoạn 2016 – đến 2018, các cơ quan bảo hiểm xã hội đã chi khám giám định thương tật bình quân là hơn 1,9 tỷ đồng/năm; chi trợ cấp bình quân là gần 148 tỷ đồng/năm; chi hỗ trợ chuyển đổi nghề bình quân là gần 67 tỷ đồng/năm; chi hỗ trợ phòng ngừa TNLĐ, BNN trong năm 2018 là 200 triệu đồng; năm 2017 phê duyệt hỗ trợ kinh phí huấn luyện từ bảo hiểm xã hội là hơn 96 tỷ đồng cho 38.276 người; năm 2018 phê duyệt hỗ trợ huấn luyện ATVSLĐ cho người tham gia bảo hiểm TNLĐ, BNN bắt buộc là gần 43 tỷ đồng… Tuy vậy, việc triển khai còn vướng mắc, chậm do một số quy định về tài chính, thủ tục hành chính quá phức tạp.
Phát huy hiệu quả “Phòng ngừa TNLĐ – BNN” từ Quỹ Bảo hiểm TNLĐ – BNN
Mục đích chính của Luật ATVSLĐ là mở rộng đối tượng sang cả khu vực lao động không có hợp đồng lao động, chuyển mạnh từ bị động giải quyết hậu quả sang chủ động phòng ngừa, giảm thiểu TNLĐ, BNN.
Để thực hiện tốt hơn chính sách bảo hiểm TNLĐ, BNN bắt buộc, các cấp, ngành cần tích cực sử dụng hiệu quả nguồn tối đa 10% từ nguồn thu Bảo hiểm TNLĐ, BNN hàng năm (500 tỷ mỗi năm) để hỗ trợ cho các doanh nghiệp (DN), NLĐ trong cả nước phòng ngừa TNLĐ, BNN; Mở rộng nội dung hỗ trợ, nâng mức bồi thường trợ cấp; Mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm TNLĐ, BNN sang khu vực không có quan hệ lao động (Dự kiến Bộ LĐTBXH sẽ xây dựng dự thảo trình Chính phủ vào năm 2020). Bên cạnh đó, cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc, thực hiện chế độ, chính sách TNLĐ-BNN tại các đơn vị sử dụng lao động, các cơ quan có thẩm quyền liên quan đến giải quyết đóng, hưởng chế độ TNLĐ-BNN, kịp thời phát hiện và xử lý vi phạm, đảm bảo quyền lợi của NLĐ.
Bộ LĐ-TB&XH cũng đã xây dựng dự thảo trình Chính phủ ban hành Nghị định thay thế Nghị định 37/2016/NĐ-CP theo hướng: Bỏ bớt thủ tục hành chính; quy định rõ hơn, thuận lợi hơn mức hỗ trợ (cao hơn); quy trình xác định đối tượng được hưởng nhanh hơn, chính xác hơn, quy trình thực hiện thuận lợi hơn, nhằm hỗ trợ DN thực hiện tốt hoạt động phòng ngừa, giảm TNLĐ, BNN. Cụ thể:
Khám, chữa bệnh nghề nghiệp. Hiện nay, DN rất ngại, thậm chí trốn khám phát hiện BNN cho NLĐ vì việc khám này rất tốn kém so với khám sức khỏe bình thường. Khi phát hiện ra BNN, DN lại phải tốn kém rất nhiều chi phí chữa bệnh cho NLĐ. Bên cạnh đó, sẽ phải cải thiện điều kiện lao động, môi trường lao động. Chính vì lý do đó nên quy định hỗ trợ khám, chữa bệnh nghề nghiệp là giúp DN giảm chi phí nhưng vẫn đảm bảo được quyền lợi, chế độ cho NLĐ.
Phục hồi chức năng cho NLĐ. Khi NLĐ không may bị TNLĐ, bị suy giảm chức năng của các bộ phận cơ thể, NLĐ khó làm được công việc bình thường, dễ bị sa thải, mất việc làm. Quy định hỗ trợ DN phục hồi chức năng cho NLĐ là rất nhân văn, vừa giúp DN giảm chi phí phục hồi, giúp NLĐ phục hồi chức năng có thể tiếp tục làm công việc phù hợp, có thu nhập nuôi sống bản thân và gia đình. Đặc biệt giúp người lao động trong DN yên tâm công tác, gắn bó với DN.
Điều tra lại các vụ TNLĐ, BNN theo đề nghị của cơ quan Bảo hiểm xã hội. Trước đây chưa có quy định này, khi Đoàn điều tra TNLĐ đưa ra kết luận điều tra, có trường hợp Bảo hiểm xã hội không đồng tình, nên có thể gây thiệt hại cho DN, nhất là chế độ chính sách không thực hiện được, ảnh hưởng đến quyền lợi của NLĐ và Quỹ TNLĐ-BNN nhưng khó tổ chức điều tra lại vì chưa có quy định của pháp luật nên không có kinh phí cho hoạt động này. Vì vậy, quy định này sẽ giải quyết được dứt điểm vướng mắc nêu trên.
Hỗ trợ huấn luyện ATVSLĐ. Đây là hoạt động rất quan trọng trong phòng ngừa TNLĐ-BNN. Bởi vì khi NLĐ được huấn luyện ATVSLĐ theo đúng các quy định của Luật ATVSLĐ, Nghị định 44/2016/NĐ-CP và huấn luyện các giải pháp làm việc an toàn tại DN, cơ sở sản xuất , họ sẽ hiểu các rủi ro, biết cách phòng tránh nguy cơ có thể xảy ra TNLĐ-BNN với họ. Biết bảo vệ mình và đồng đội xung quanh, đem lại hạnh phúc cho gia đình của họ khi không xảy ra TNLĐ –BNN. Tránh được TNLĐ – BNN là tránh được mất đi sức khỏe, tính mạng; giảm chi phí, thiệt hại cho DN; Đem lại hạnh phúc cho bản thân, gia đình, góp phần phát huy hiệu quả của Quỹ Bảo hiểm TNLĐ-BNN.
Nghị định sửa đổi Nghị định số 37/2016/NĐ-CP đã trình Chính phủ ban hành. Với hành lang pháp lý ngày càng hoàn thiện, chính sách bảo hiểm TNLĐ, BNN sẽ ngày càng phát huy hiệu quả, bảo vệ sức khỏe, tính mạng NLĐ, hỗ trợ doanh nghiệp tiết kiệm chi phí, góp phần đảm bảo an toàn, trật tự, phát triển xã hội.
Nguồn: TCLĐXH

X