Xây dựng văn hoá an toàn nhằm tích cực chủ động phòng ngừa tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp cho doanh nghiệp sản xuất kinh doanh tại Việt Nam

Theo quan điểm của UNESCO:“Văn hoá phản ánh và thể hiện một cách tổng quát, sống động mọi mặt của cuộc sống (của mỗi cá nhân và của mỗi cộng đồng) đã diễn ra trong quá khứ, cũng như đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng bao nhiêu thế kỷ nó đã cấu thành một hệ thống các giá trị, truyền thống, thẩm mỹ, lối sống và dựa trên đó từng dân tộc khẳng định bản sắc riêng của mình”.

Văn hóa là bao gồm tất cả những sản phẩm của con ngườivà xã hội. Như vậy, văn hóa bao gồm cả hai khía cạnh: Khía cạnh phi vật chất của xã hội như ngôn ngữ, tư tưởng, giá trị và các khía cạnh vật chất như nhà cửa, quần áo, các phương tiện, tài sản, máy – thiết bị, nhà xưởng,…

Những đặc trưng của văn hoá doanh nghiệp:

Một trong những tiêu chí quan trọng hàng đầu mà các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển đó là giá trị theo đuổi. Cụ thể như:

+ Sáng tạo các sản phẩm mới mang lại giá trị cho khách hàng.

+ Phấn đấu làm hài lòng khách hàng bằng chất lượng tốt và giá cả hợp lý.

+ Hợp tác cùng làm việc như: Đề cao sự hợp tác, chia sẻ thông tin, kiến thức, kinh nghiệm, quan hệ cộng đồng,…

Ngoài ra, các doanh nghiệp cần phải thiết lập nên một loạt các tiêu chí có giá trịkhác như:

+ Tạo dựng niềm  tin (không có niềm tin vào thành công thì thật khó có sức mạnh trong hợp tác).

+ Thái độ ứng xử (phù hợp với các chuẩn mực đạo đức của xã hội hiện đại: chia sẻ những khó khăn trong công việc, lãnh đạo biết lắng nghe, nhân viên tích cực,… tạo ra một môi trường làm việc lành mạnh trong doanh nghiệp)

+ Hành vi giao tiếp: Để lại ấn tượng quan trọng và nó thể hiện các hành động mang tính văn hóa của doanh nghiệp.

+ Doanh nghiệp cần có quy định thống nhất về các hành vi giao tiếp trong nội bộ, với khách hàng, bạn hàng và với các cơ quan quản lý nhà nước.

+ Sự tham gia của ban lãnh đạo và nhân viên: Tham gia dẫn dắt các hoạt động văn hóa doanh nghiệp.

Các quan điểm về văn hoá an toàn, văn hoá phòng ngừa tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp tại nơi làm việc:

Theo công ước 187(5/12/2006) của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) thì để thể hiện quyết tâm “hướng tới một văn hóa phòng ngừa” nhằm tạo cho nơi làm việc trở nên an toàn hơn và là một phần của “quá trình cải thiện điều kiện lao động” đồng thời cũng liên quan đến đối thoại giữa người lao động và chủ lao động, trong đó quyền về môi trường làm việc an toàn và lành mạnh được tôn trọng ở mọi cấp, trong đó có cả chính phủ. Người sử dụng lao động và người lao động chủ động tham gia vào việc bảo đảm môi trường làm việc an toàn và lành mạnh thông qua một hệ thống các quyền, trách nhiệm và nghĩa vụ được xác định, và ở đó nguyên tắc phòng ngừa được ưu tiên cao nhất.

Trong thực tế, “văn hoá an toàn” hay “văn hoá phòng ngừa” đã được sử dụng ở nhiều quốc gia khác nhau và được nhìn nhận như một “nền tảng” trong chiến lược tăng khả năng cạnh tranh, sự tin cậy và đảm bảo cho sự phát triển bền vững của doanh nghiệp. Cụ thể như sau:

Uỷ ban An toàn và vệ sinh Vương quốc Anh (năm 1993): Văn hoá an toàn tại nơi làm việc của một doanh nghiệp:

+ Là sản phẩm của các nguyên tắc ứng xử, thái độ, sự nhận thức, năng lực và khuôn mẫu hành động.

+ Được định rõ và được cam kết thực hiện cùng với sự thành thạo trong việc quản lý về an toàn vệ sinh lao động của doanh nghiệp.

Theo quan điểm của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO): Văn hoá an toàn tại nơi làm việc là văn hoá trong đó:

+Quyền có một môi trường làm việc an toàn và vệ sinh của người lao động  được tất cả các cấp tôn trọng.

+Chính phủ, người sử dụng lao động và người lao động đều tham gia tích cực vào việc đảm bảo môi trường làm việc an toàn và vệ sinh.

+Thông qua một hệ thống các quyền, trách nhiệm và nghĩa vụ được xác định.

+Nguyên tắc phòng ngừa được đặt vào vị trí ưu tiên hàng đầu.

Thực hiện văn hoá an toàn tại nơi làm việc ở Việt Nam:

Bảng 1. Nội dung phân cấp thực hiện văn hoá an toàn tại nơi làm việc

Cấp Quốc gia Cần thể hiện rõ trong đường lối, chính sách và pháp luật về an toàn vệ sinh lao động của nhà nước Việt Nam:Bộ luật Lao động và Luật An toàn vệ sinh lao động quy định trách nhiệm củachính phủ, người sử dụng lao động, người lao động và các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền về an toàn vệ sinh lao động và các cơ chế đảm bảo việc thi hành pháp luật, hệ thống thanh tra lao động, vai trò của tổ chức công đoàn,…
Cấp Chính phủ Từng bước hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật an toàn vệ sinh lao động. Các chính sách, pháp luật an toàn vệ sinh lao động: Nhằm đảm bảo các quyền được hưởng một môi trường làm việc an toàn vệ sinh lao động của người lao động, bắt buộc các cấp phải tôn trọng (thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, chăm sóc sức khoẻ người lao động, trang bị phương tiện bảo vệ cá nhân cho người lao động,…) là cơ sở để đảm bảo thực hiện “Văn hóa an toàn lao động tại nơi làm việc”.
Kiện toàn tổ chức và đổi mới phương thức hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh lao động. Công tác quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh lao động được mở rộng sang lĩnh vực nông nghiệp, các làng nghề.
Công tác thông tin, tuyên truyền nâng cao nhận thức được đẩy mạnh;tư vấn, phổ biến kiến thức, pháp luật an toàn vệ sinh lao động cho các doanh nghiệp thay vì chỉ đơn thuần thực hiện các biện pháp cưỡng chế.
Hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong việc tiếp cận các hệ thống quản lý an toàn vệ sinh lao động (ILO-OSH MS 2001, ISO 45001: 2018); giới thiệu và hướng dẫn phương pháp cải thiện điều kiện lao động trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực có nguy cơ cao về mất an toàn,…
Cấp doanh nghiệp Về phía người sử dụng lao động Đầu tư đổi mới thiết bị, công nghệ; cải tạo nhà xưởng, môi trường làm việc; Trang bị phương tiện bảo vệ cá nhân; Đào tạo huấn luyện an toàn vệ sinh lao động cho người lao động; Đẩy mạnh công tác kiểm tra và tự kiểm tra.
Xây dựng các giải pháp phòng ngừa rủi ro và kế hoạch ứng cứu khẩn cấp khi có sự cố xảy ra… chủ động hoặc theo yêu cầu của đối tác đã đưa vào áp dụng các hệ thống quản lý theo bộ tiêu chuẩn ISO 45001, SA 8000, OSHAS 18001,…
Cam kết với người lao động thực hiện tốt các chế độ chính sách đối với người lao động, về an toàn vệ sinh lao động thông qua các thoả ước lao động tập thể; đảm bảo chế độ làm việc của người lao động, các hoạt động phúc lợi xã hội;Thực hiện quyền bình đẳng trong công việc và cư xử,…
Về phía người lao động Ý thức trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ trong công tác an toàn vệ sinh lao động.
Tham gia, đóng góp xây dựng thoả ước lao động tập thể, nội quy LĐ của doanh nghiệp.
Cùng với người sử dụng lao động xây dựng hệ thống quản lý an toàn vệ sinh lao động và trực tiếp tham gia các hoạt động: đánh giá rủi ro, cải thiện điều kiện lao động,…
Nhận thức của người lao động về an toàn vệ sinh lao động được nâng cao, ý thức chấp hành các quy định về an toàn vệ sinh lao động được cải thiện; hiểu, tôn trọng và nghiêm túc thực hiện các quyền và nghĩa vụ đối với công tácan toàn vệ sinh lao động.

Giải pháp xây dựng văn hoá an toàn tại doanh nghiệp:

Để thực hiện văn hoá an toàn tại doanh nghiệp có hiệu quả cao nhất, chúng ta nên ưu tiên tập trung hướng vào kiểm soát các khu vực có nguy cơ cao, những nơi làm việc/công việc có tỉ lệ tai nạn cao.

Hình 1. Chu trình giải pháp xây dựng văn hoá an toàn tại doanh nghiệp

Việt Nam là một nền kinh tế năng động, sáng tạo. Trong những năm gần đây, ngoài việc đẩy mạnh thu hút nguồn đầu tư từ các quốc gia phát triển bên ngoài, thì Chính phủ Việt Nam cũng luôn ưu tiên tập trung đầu tư nguồn lực cho các doanh nghiệp trong nước phát triển nhằm cung cấp các sản phẩm chất lượng, có thương hiệu đến các nước phát triển trên thế giới như: Liên minh châu Âu, Hoa Kỳ, Nhật Bản,…Để thực hiện điều này một cách hiệu quả, thì chủ trương xây dựng văn hoá an toàn tại nơi làm việc đối với các doanh nghiệp là một trong những nhiệm vụ trọng tâm ưu tiên của Chính phủ Việt Nam. Thông qua hình thức hướng dẫn, khuyến khích cùng với xây dựng các chế tài về pháp lý, các giải pháp và sự hỗ trợ khác nhằm giúp cho doanh nghiệp phát triển – mang lại khả năng cạnh tranh, uy tín và lợi ích cho cả quốc gia, doanh nghiệp và người lao động. Đây cũng là chìa khoá để cải thiện điều kiện lao động, phòng ngừa các nguy cơ rủi ro, nhằm giảm thiểu tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp một cách hiệu quả./.

ThS-KH. Trần Xuân Hiển

X